Lễ rước thần ở đình làng tại Quảng Bình
Đi đầu đoàn rước thần là 2 hàng người cầm cờ và người cầm loa truyền lệnh dọn đường.
Tiếp theo, đội trống cà rừng và 1 số nhạc công như nhị, kèn, sáo và bạt, hợp tấu với trống cà rừng. Không ai hiểu vì sao đội trống kèn này lại có cái tên là “cà rừng”, nhưng khi nghe tiếng trống thì quả là âm thanh của nó gần đúng như tên gọi của nó.
Một đội trống cà rừng gồm từ 3 đến 6 người, mỗi người mang 1 chiếc trống trước ngực, mặt trống ngửa lên, người nhạc công phải gõ trống bằng cả 2 tay theo chiều thẳng đứng trên mặt trống (khác với cách đánh trống điểm ở trống đại). Đội trống cà rừng bao gồm cả bộ phận trống đại điểm cho trống cà rừng. Tóm lại, toàn đội trống cà rừng bao gồm có:
-3 hoặc 4, 5, 6 chiếc trống cà rừng.
- Một chiếc trống đại có 2 người khiêng và 1 người đánh.
- Vài ba nhạc công kèn, nhị và bạt v.v. .
Loại trống cà rừng chỉ được sử dụng riêng trong các lễ rước thần. Nó không được dùng ở trong các đám rước khác. Cho nên, trong làng trong xã, nếu nghe tiếng trống cà rừng đâu đó thì người ta biết chắc ở đó có rước thần.
Trống cà rừng bắt buộc nhạc công phải đeo ở trước ngực. Trống có 2 mặt, được bịt bằng da bò thuộc mỏng, đường kính của mỗi mặt trống khoảng 30cm, chiều cao chang trống chừng khoảng 28cm được làm bằng gỗ mít, cũng có khi là cả thân cây mít đục rỗng. Trống có hình trụ, giữa lưng chang trống rộng hơn 2 đầu mặt trống. Chu vi giữa chang trống, chỗ rộng nhất là 1m14. Nếu tính đường kính, có thể sẽ là 36cm, rộng hơn hai mặt 5 cm.
Người nhạc công đánh trống bằng 2 cái dùi bằng gỗ táu và tiện tròn, đầu lớn đầu nhỏ; đầu lớn có đường kính 3cm, đầu nhỏ là 1,5cm, chiều dài dùi trống là 40 cm.
Như ở trên đã nói, trống cà rừng luôn có bộ phận trống đại kèm theo để điểm đệm cho cà rừng.
Tuy nhiên, trống đại ở đây không phải là một loại trống đại đi đôi với chuông trong bộ “chung cổ”. Nó khác ở chỗ kích thước của nó nhỏ hơn đôi tí đã đành nhưng nó còn khác nhất là ở chỗ âm thanh giữa nó với trống đại chung cổ.
Rước thần là một loại rước có bước diễu hành rất chậm, rất khoan thai, thư thả, dịu dàng và cũng rất tôn nghiêm, kính cẩn khác với lối diễu binh, bước quân hành hùng dũng, mạnh mẽ, nhanh gấp và dứt khoát.
Thần ngự khác với quân đi, mặc dầu ở trong rước thần cũng có quân lính (tượng trưng) theo hầu. Cho nên trống cà rừng tuy cũng là loại trống diễu hành, cũng thúc giục rộn ràng và cuốn hút nhưng thư thái, hình như khuyến khích người tham gia đám rước chỉ cần nhích lên từng bước, ung dung tuần tự mà đi, chớ đi vội vàng. . .
Tiếng trống nghe xao xuyến, giục giã mà lại từ tốn; oai nghiêm, ngân vang mà cũng dịu dàng và lắng động… là phần nhiều nhờ ở tiếng trống đại điểm nhịp.
Cái tinh tế của tiếng trống đại trong đội trống cà rừng là ở chỗ: Khi đám rước đang ở trên đường đi, bước diễu hành đang đều đều và chầm chậm, tiếng trống cà rừng dù chỉ 1 thanh “rừng” hay 2 thanh thành đôi “rưng, rừng” thì âm thanh của nó cũng chỉ gần bằng nhịp “hai - bốn” trong tân nhạc, tiếng trống đại điểm cho nó cũng chỉ bằng 1 thanh độc nhất, nhưng lại ngân dài và lan tỏa rộng hơn cả những tiếng trống cà rừng… Tiếng trống đại điểm nhịp lúc này giống như trong hành văn, nhà ngôn ngữ học sử dụng chấm lửng cuối câu sau những chặng ngắt ý bằng dấu phẩy…
Khi đám rước dừng lại ở một điểm nào đó, (thường là dừng lại ở trước đền miếu thờ các vị thần ngoài vị Thành Hoàng Bổn Thổ) và khi đám rước về trở lại ngôi đình đã xuất phát, thì tiếng trống cà rừng lúc này rất dồn dập, giục giã, gấp gáp và cáp bách đến kỳ lạ, ngược hẳn với lúc đang đi diễu hành.
Lúc này, những thanh âm “rưng… rừng… rừng rừng… và tiếng trống đại điểm thùng” đều ngắn, tròn trặn, dứt khoát, như một dấu chấm than (!) ở trong một câu văn
Thiêng liêng lễ rước thần ở đình làng
Ở diễu hành rước thần, thì trống cà rừng thư thái khi đang đi và thúc giục, dồn dập khi dừng lại. Còn ở diễu binh, trống nhạc giục giã khi đang đi và dịu dàng êm ả khi dừng lại…Do đó, tiếng trống đại điểm nhịp cho cà rừng phần nhiều là 1 tiếng, rất ít khi tiếng đôi liên tục (chỉ trừ khi chấm dứt hẳn, nhưng lúc này thì hạ dần và gần như không còn nữa). Nhưng, cũng 1 tiếng trống đại điểm nhịp đó mà khi điểm nhịp trên đường dài của đám rước thì âm thanh cũng kéo dài và khi đám rước dừng lại thì âm thanh của nó lại ngắn gọn và tròn trịa một cách gọn gàng. Người rành nghe hay quen thuộc với nhiều đám rước khác nhau sẽ phân biệt được và sẽ biết được cái tinh túy của nó…
Trong 1 đám rước thần, tiếng trống cà rừng cộng hưởng với rất nhiều thứ âm thanh khác như những bản tấu nhạc của đội nhạc ngũ âm, tiếng trống cơm với tiếng kẻng và tiếng loa “lộ bố”, (ban bố lệnh trên đường đi của thần) cho âm linh, cho oan hồn tránh đường; và tiếng chuông tiếng trống lớn chầu hàu cộng thêm hàng ngũ lọng tàn, cờ quạt cùng mùi hương trầm mà thêm tôn nghiêm và oai vệ...
Đi sau đội trống cà rừng là đội nhạc ngũ âm, gồm đủ trống kèn, sáo, nhị và bạt… Tiếp đến là trống đại và chuông lớn, cứ 3 tiếng chuông là tiếp theo 3 tiếng trống, nhịp chậm… Sau hàng trống và nhạc là hương án có đầy đủ đèn lư bằng đồng, bình hoa và quả nải… Hương án thay cho bàn thờ ở trong đám rước, trên đặt các hộp sắc bằng vua phong cho các vị thần thánh từ các miếu, các đền rước về làng, xem như các vị thần đang ngồi ở trên hương án để đi về đình làng.
Đi phía sau hương án là đội binh bảo vệ ngai vàng. Đội binh được trang phục đúng như binh lính thật của nhà vua nhưng được trang bị bằng binh khí gỗ mà hình dáng giống như thực… Sau đội binh là Ngai Thần, được sơn son thếp vàng giống như ngai vua thật, chỉ khác là ở trên ngai không có vua và người ngồi. Ngai Thần cũng được một đội binh có 4 người khiêng và có 4 lọng vàng che. Trước bệ ngai còn có 1 chiếc lư trầm bằng đồng lớn, đốt trầm hương mà không có đèn nhang như ở hương án. Tiếp Ngai Thần là vị chánh tế chủ bái của làng đi theo hầu. Vi này cũng được che 2 hay 1 lọng xanh, tùy theo chức tước của vị đó. Cuối đám rước là 1 đoàn người cầm cờ giống như đội cờ đi đầu.
Đoàn rước thần đi khắp các nẻo đường chính ở trong làng. Những nhà ở 2 bên đường mà đám rước sẽ đi qua đều tự nguyện dọn bàn thờ, lương án và hương đèn nghi ngút chờ đón đám rước đi qua, chủ nhà mang áo rộng màu xanh, chít khăn đóng đen vái lạy chào mừng, giống như nghênh giá đức vua .
Sau lúc đám rước thần trờ về đình làng, làng sẽ làm lễ tế. Nhân dân, tùy khả năng, lòng thành, bưng lễ vật của mình đến tế thần, bên cạnh lễ vật của làng.
Việc tế lễ ở đình làng, nói chung, thì nơi nào cũng giống nhau… Nếu muốn đi tìm những nét đẹp riêng trong việc thờ cúng và tế lễ ở các tỉnh trong nước ta, thì chúng tôi thử nêu lên 1 tục lệ nói là lạ lùng cũng được, mà nói là văn minh cũng được, vì nếu như chúng ta đi ngược thời gian một chút, quay về với thời phong kiến triều Nguyễn trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chắc chắn sẽ thấy tục lệ này là văn minh, là đẹp.
Ngày xưa chế độ đình trung ở làng ở xã, không một nơi nào chấp nhận cho phụ nữ đến cúng bái, kể cả việc nấu ăn và sửa soạn lễ vật dâng thần. Nếu có một trường hợp nào, mà có một cô gái nhà ai đó phải bưng mâm giỗ thần cho cha, anh đến đình làng thì khi đến gần cửa tam quan, cũng giao lại cho một ai đó là nam giới bưng vào đình hộ, rồi quay trở về. Đã là phụ nữ thì sẽ không được tới đình làng, trừ trường hợp, người nữ đó là người bị tội mà làng cho áp giải tới để trừng phạt.
Đoàn rước lễ nghênh kiệu đưa thần khắp các nẻo đường ngõ xóm
Thế mà, ở Thuận Bài (nay thuộc xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) lại có lệ: trong những ngày lễ tế Thành Hoàng Bổn Thổ như lễ Xuân Thủ, Kỳ Yên hàng năm, làng có tổ chức 1 cuộc thi “Cỗ Bánh dân thần” dành riêng cho những người phụ nữ. Các cô gái ở trong làng cũng được phép tự bưng cỗ bánh do mình chế biến đến đình làng để dự thi tài gia chánh. Cỗ bánh nào được làng chọn làm giải thưởng thì chủ nhân của nó cũng được bê đặt lên bàn thờ dâng thần ngự lãm, và dĩ nhiên là cô gái đó cũng được dự lễ tế thần. Có lẽ đây chính là 1 tục lệ hiếm thấy và cũng là ngoại lệ, nếu không dám nói là có 1 không 2 dưới thời phong kiến. Với phong tục này ở Thuận Bài mà nhìn rộng ra thì trong việc tín ngưỡng đa thần, người mình còn thờ khá nhiều các nữ thần. Ví dụ: Các làng biển làng nào cũng thờ Đại Càn tứ vị thánh nương, các làng vùng gò đồi thì thờ Liễu Hạnh công chúa và nhiều nơi còn thờ Nữ thần Thiên Y-A-Na, thờ Trưng Nữ Vương, thờ Bà Hỏa, Bà Thủy, Bà Thổ, Bà Ngư, có làng thì thờ cả nữ Thành Hoàng Khai Canh. Trong gia đình thì nhân dân đều thờ Bà Bếp, Bà Mụ, Bà Cô, Bà Tổ Cô và Bà Thần Tài, trong tôn giáo thì thờ Quan Âm Thị Kính,thờ Phật Bà Quan Âm...
Bài viết về Quảng Bình liên quan
- Hội đua thuyền tại Quảng Bình
(lehoi.org) - Lễ hội đua thuyền thường được tổ chức vào ngày mùng 2 tháng 9 hàng năm, tại sông Kiến Giang, Lệ Thuỷ, Quảng Bình. Cứ đến ngày Quốc Khánh 2/9, huyện Lệ Thủy lại mở hội bơi, đua thuyền nam...
- Tưng bừng lễ hội cầu mùa tại Quảng Bình
(lehoi.org)- Đã 600 năm nay, cứ vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch, nhân dân xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình lại tưng bừng tổ chức lễ hội cầu mùa, tỏ lòng thành...
- Dự kiến tổ chức Festival hang động vào tháng 5/2011 tại Quảng Bình
(lehoi.org) - Vừa qua UBND tỉnh Quảng Bình đã họp triển khai kế hoạch tổ chức Festival hang động năm 2011. Theo đó, dự kiến Festival hang động sẽ được tổ chức trong khoảng thời gian tháng...
- Lễ hội chèo cạn, múa bông tại Quảng Bình
(lehoi.org) - Nằm trong khuôn khổ Tuần Văn hoá Du lịch Quảng Bình 2011, “Lễ hội chèo cạn, múa bông” sẽ diễn ra vào ngày 7/6 tại thành phố Đồng Hới. Đây là lễ hội cầu mùa mang ước nguyện...
-
- Công tác chuẩn bị “Tháng Du lịch Quảng Bình năm 2012”
(lehoi.org)- N hằm đánh giá công tác chuẩn bị các hoạt động trong Tháng du lịch sắp tới , Ban tổ chức “Tháng Du lịch Quảng Bình 2012” đã tổ chức cuộc họp vào n gày 03/5/2012 . Phát biểu tại cuộc...
- Tưng bừng lễ hội hang động Quảng Bình 2013
(lehoi.org)- Tối 25/5, UBND tỉnh Quảng Bình đã tổ chức Lễ kỷ niệm 10 năm Vườn QG Phong Nha- Kẻ Bàng được công nhận Di sản thiên nhiên thế giới và khai mạc Lễ hội hang động Quảng Bình năm 2013 ...
- Lễ hội đập trống của người Ma Coong tại Quảng Bình
Đập Trống là một trong những lễ hội lớn của người Ma Coong mỗi năm lễ hội được tổ chức 1 lần vào ngày 16 tháng giêng âm lịch để mừng mùa trăng mới. Lễ hội được tổ chức ở tại bản Cà Roòng, xã Thượng Trạch...
- Lèn Vịnh Tiên Lệ và Lễ hội đền thờ Phù Đổng Thiên Vương tại Quảng Bình
Lèn Vịnh là tên gọi từ thời xa xưa một hòn núi ở xã Quảng Tiên, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Từ thuở khai thiên lập địa, Lèn Vịnh mọc lên ở giữa làng Tiên Lệ như 1 tấm bình phong lớn cao sừng sững...
- Hội rằm tháng ba Minh Hoá tại Quảng Bình
Hàng năm cứ vào ngày rằm tháng 3 âm lịch , những người dân ở huyện miền núi rẻo cao Minh Hóa lại vào hội rằm tháng 3. Lễ cúng Bụt trước khi mở hội rằm tháng ba Minh Hóa Từ thời xa xưa, những người dân...
-
- Lễ hội Cầu Mùa Bảo Ninh tại Quảng Bình
(lehoi.org) - Lễ hội Cầu Mùa Bảo Ninh được tổ chức hàng năm vào ngày 14 đến ngày 16 tháng 4 Âm lịch tại làng biển Bảo Ninh - TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Đây là một lễ hội tiêu biểu của người dân...
- Lễ hội chèo cạn, múa bông tại Quảng Bình
(lehoi.org) - Lễ hội chèo cạn, múa bông là lễ hội thường được tổ chức trong các dịp lễ kỷ niệm lớn của dân tộc. Đặc biệt, đây cũng chính là một phần không thể thiếu trong Lễ hội Cầu ngư hàng năm của những...
- Lễ hội cầu ngư tại Quảng Bình
(lehoi.org) - Lễ hội cầu ngư được tổ chức vào dịp rằm tháng 4 hàng năm, tại xã Bảo Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình. Đây là một trong những lễ hội truyền thống nhằm cầu tài, cầu an, cầu mưa thuận gió hòa cho...
Ghi chú bài viết Lễ rước thần ở đình làng tại Quảng Bình
Từ khóa:
Vào dịp đầu xuân, các làng các xóm thường có lễ Xuân Thủ ở tại đình làng. Trong lễ thường có buổi rước thần. Theo truyền tụng thì rước thần ở đây có mục...