Lễ giỗ Tứ Kiệt tại Tiền Giang

Thời gian: 25/12 Âm lịch
Lễ giỗ bốn vị anh hùng: Nguyễn Thanh Long, Trương Văn Rộng, Trần Công Thận, Ngô Tấn Đước, bị giặc Pháp xử chém vào ngày 14 tháng 2 năm 1871, nhằm ngày 25 tháng chạp năm Canh Ngọ. Lễ giỗ bốn vị anh hùng được tổ chức tại Lăng Tứ Kiệt (thị trấn Cai Lậy, Tiền Giang). Những năm chẵn, lễ giỗ được tổ chức qui mô và có các ban ngành ở trong tỉnh tham gia.

Lăng Tứ Kiệt
Lăng Tứ Kiệt

"Tứ Kiệt” hay “Bốn Ông” là một cách gọi tôn kính của nhân dân theo cách sắp xếp thứ tự ở trong quân thứ đối với bốn vị anh hùng lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp ở vùng Cái Bè, thị trấn Cai Lậy. Đó là các ông: ông Long, ông Thận, ông Rộng, ông Đước.

Ông Long có tên họ đầy đủ là Nguyễn Thanh Long, hay còn được gọi là ông Năm Long sinh ra vào năm Canh thìn (1820), ở tại nơi mà nay gọi là xóm Cầu Ván, ấp Cẩm Hòa, xã Cẩm Sơn, Cai Lậy. Khi ông Nguyễn Thanh Long ly khai gia đình đi kháng chiến, người chị cả của ông là bà Hai An đã bị tên Việt gian Trần Bá Lộc bắt giam nhục hình và đòn roi đến thối cả hậu môn. Em kế là ông Sáu Quang cũng đã bị chúng bắt tra khảo rất dã man, rồi đày đi Côn Đảo!

Ông Năm Long kết hôn với bà Phạm Thị Lài, sinh được hai người con gái là Nguyễn Thị Sửu và Nguyễn Thị Ngọc. Trong thời gian bôn ba ở chiến trận, ông đã có thêm một bà vợ thứ ở Vĩnh Long và sinh được một người con trai. Ông thọ 52 tuổi.

Nhân vật số 2 đó là ông Trần Quang Thận, tự là Phượng, nguyên quán ở tại xóm Đập, ấp Mỹ Phú, xã Mỹ Trang (nay là Nhị Mỹ, Cai Lậy). Ông có 8 người con là Trần Công Tú,  Trần Thị Nhặt, Trần Quang Thanh, Trần Quang Nhi, Trần Văn Sanh, Trần Thị Lang và 2 người nữa thì không rõ tên. Hậu duệ của ông Trần Quang Thận hiện nay đã đến đời thứ 7, nhưng đều đi tứ tán khắp nơi nên không tìm biết được năm sinh của ông. Tuy nhiên người ta ước đoán rằng, tuổi ông và ông Long cũng tương đương nhau, lúc hy sinh thì người con thứ tư của ông là Trần Quang Thanh đã làm đến chức Quản đạo.

Có thể khi bị bắt, ông đã dũng cảm khai nhận hết trách nhiệm về phần mình, nên bọn người Pháp đã nhầm lẫn ông là một người cầm đầu, gọi là Ngươn soái. Tài liệu của các tác giả Schreiner và P.Vial viết về 4 ông cũng đều ghi như vậy - Nguon soai Than.

Còn hai nhân vật cuối, người ta chỉ biết được tên và họ là Trương Văn Rộng, người của xã Tân Hiệp, Bến Tranh (nay là Tân Hội Đông, Châu Thành), và Ngô Tấn Đước, gốc gác là ở Tân Hội, Cai Lậy.

Đặc biệt, Tứ Kiệt đều to lớn khác thường, nước da thì màu đồng đen. Truyền rằng cả bốn ông đều có võ nghệ cao cường, tướng pháp lanh lẹ, râu rậm và tóc dài chấm gót. Các cố lão ở địa phương kể lại rằng, Tứ Kiệt đều có biệt tài là chạy rất nhanh và nhảy cũng rất cao. Có một lần gặp bất trắc, để thoát thân, một trong 4 ông đã cặp thêm ở bên nách một cháu nhỏ khoảng 10 tuổi và chạy vun vút như tên, tóc xổ ra phất phới như lá cờ.

Cả 4 ông đều là lính đồn điền, thuộc cấp của Thiên hộ Võ Duy Dương và Phó tướng Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều. Khi lực lượng nghĩa quân của Thiên hộ Võ Duy Dương tan rã, các ông Long, Thận, Rộng và Đước đã tiếp tục đứng ra lãnh đạo nghĩa quân, chọn vùng Cái Bè, huyện Cai Lậy làm địa bàn hoạt động.

Tuy nghĩa binh của Tứ Kiệt chỉ được trang bị ban đầu toàn những vũ khí thô sơ, chủ yếu là giáo mác, là gậy gộc, nhưng nhờ biết áp dụng các chiến thuật dân gian, biết vận dụng nhiều những “mưu thần chước quỷ” để nâng lên thành chiến thuật và kỹ thuật trong chiến đấu theo kiểu “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, có nghĩa là về mục tiêu, nguyên tắc thì bất di bất dịch, còn về hình thức, biện pháp thì căn cứ vào tình hình thực tế để xử lý kịp thời những vấn đề đặt ra một cách linh hoạt và mềm dẻo như:

Gây thương vong tại chỗ, lấy ít đánh nhiều, hoặc nếu không may mà bị vây, ví thì biết sáng tạo những hình thức “gói quân”, đồng thời thiết đặt chướng ngại theo kiểu “ma ma phần phật”, nhằm gây sự cản trở, hoặc làm cho giặc phải nghi sợ, tiêu diệt sinh lực địch, hoặc nhẹ lắm thì cũng làm tiêu mòn dần sức hung hăng mỗi khi chúng triển khai đội hình, ruồng bố.

Những chiến thuật như gài ổ ong, làm hầm chông ở những nơi mà chúng hành quân, quen thói lục lạo và hôi của; cưa gần như đứt hẳn các chân cầu bắc ngang kinh rạch đã có phục kích hoặc cắm sẵn chông nhọn bên dưới rồi giật sập cầu lúc chúng đi qua; bày kế cho những gia đình nghĩa binh giả vờ tử tế, tạo điều kiện cho giặc vào ăn, vào ngủ rồi tùy cơ tiêu diệt, thậm chí nửa đêm tự đốt nhà sau khi đã khóa cột chặt cứng các cửa ra vào, không cho chúng có đường thoát thân và chúng phải bị nướng sống...

Hiển hách nhất phải kể đến là trận quân của Tứ Kiệt tấn công thành Định Tường (ở địa phận 2 thôn Bình Biên và Điều Hòa ngày xưa) vang động cả khu vực. Ở trận này, trước khi đánh, đích thân Tứ Kiệt đã cải trang thành người đi làm mướn và len lỏi được vào nội thành, khi đã dò xét được cặn kẽ từng đường đi nước bước và quy luật sinh hoạt của quân địch, vào lúc 3 giờ khuya đêm ngày mùng 1 tháng 5 năm 1868, lợi dụng lúc trời tối đen như mực, bọn giặc đang ngủ say, 4 ông đã cho nghĩa binh trèo tường vào thành, giết chết tên trưởng kho, rồi phóng hỏa thiêu rụi kho lương của bọn giặc.

Ngày 25 tháng 12 năm 1870, lợi dụng lúc phần lớn bọn binh lính Pháp kéo về Mỹ Tho để ăn lễ Noel và chỉ để lại 25 tên lính mã tà, nhưng thay vì cảnh giác canh giữ đồn bót, thì tên chỉ huy Đội Cơ lại tổ chức ăn uống nhậu nhẹt, nghĩa quân của Tứ Kiệt đã bất thần tấn công đồng Cai Lậy, chiếm chợ và bắt tên Việt gian Bếp Hữu, trị tội bằng cách “nướng trui”, đồng thời phóng hỏa thiêu trụi trại lính của chúng và tịch thu nhiều vũ khí, đạn dược rồi rút về căn cứ một cách an toàn.

Do liên tiếp bị tấn công và tổn thất nặng nề nên thực dân Pháp đã huy động lên đến 1.200 quân, gom ở các vùng lân cận như  Mỹ Tho, Tân An, Vĩnh Long và Gò Công, quyết triệt hạ bằng được các căn cứ của nghĩa quân ta.

Chúng ruồng bố khắp nơi. Bởi quân của Tứ Kiệt hầu hết “đêm thì là lính, ngày lại là dân”, có mặt ở khắp mọi nơi nhưng lại không có mặt ở một nơi nào cụ thể, cho nên sự càn quét không mang lại kết quả như mong muốn. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều cuộc đụng độ nảy lửa diễn ra, nhưng cứ trầy trật và bất phân thắng bại. Cuối cùng, tên Việt gian Trần Bá Lộc đã hiến kế bắt giam và áp dụng những đòn tra khảo hiểm nghiệt đối với thân nhân gia đình của 4 ông và của 150 thường dân khác. Tuy không có ai khai báo hoặc cung cấp điều gì, nhưng 4 ông không nỡ để cho bà con mình cứ bị tra khảo đau đớn đến thối cả da thịt, nên 4 ông đã quyết định đánh đổi bằng cách tự nạp mình.  Hôm ấy là ngày mùng 1 tháng 4 năm 1871.

Tên Lộc nhân danh đại diện cho chánh phủ Pháp đem vinh hoa phú quý ra để dụ dỗ suốt 45 ngày nhưng không thành, giặc Pháp đã đem 4 ông ra chợ Cai Lậy chặt và bêu đầu ngày 14 tháng 2 năm 1871, tức ngày 25 tháng 12 năm Canh ngọ.

Thân nhân gia đình chỉ được mang thân mình của các ông về quê nhà, gắn chiếc đầu giả làm bằng đất sét vào và chôn cất. Còn bốn thủ cấp của Tứ Kiệt thì 7 ngày sau đó chúng đem vùi dập ở mé rạch phía sau chợ.

Cảm kích trước 4 vị anh hùng vì nước quên thân, vì dân diệt bạo, nhân dân địa phương đã ngấm ngầm chung đậu tiền của và lập miếu thờ ngay tại ấp Mỹ Cần, xã Mỹ Trang. Nhưng để che mắt bọn thực dân, đồng bào đã tôn trí tượng Quan Công ở phía trước (nhân vật tiêu biểu trung nghĩa), còn ở phía sau thì đồng bào làm một cái khám thờ “Tứ vị thần hồn” và giải thích đó là “Chùa Ông” (Quan Công) hoặc “Miếu cô hồn”. Nhưng sâu kín tận đáy lòng, không ai không biết đó chính là miếu thờ Tứ Kiệt.

Quang cảnh lễ giỗ Tứ Kiệt
Quang cảnh lễ giỗ Tứ Kiệt

Trận bão năm Thìn (năm 1904), cũng như toàn bộ nhà cửa, dinh thự trong vùng, “miếu cô hồn” đã bị sập, nên sau được dựng lại tại Hòa Sơn (trước đây là xã Thạnh Hòa), ngày nay là thị trấn Cai Lậy - dời về cạnh mộ, vì ngay sát đó chính quyền Pháp đã xây cất bệnh viện, nhân dân không ưng thuận (cho rằng gần nơi ô uế). Còn ngôi mộ (chôn bốn chủ cấp) thì từ năm 1871 vẫn đắp nấm đất; đến năm 1935 nhân dân đã đóng góp tiền bạc và làm riêng 4 ngôi mộ bằng xi măng, song song và gần sát kề nhau, xung quanh thì có hàng rào sắt kiên cố.

Ở tại cổng “Lăng Tứ Kiệt” có chạm khắc hai câu đối:

Tứ vị anh hùng vị quốc hy sinh vĩnh niệm,

Kiệt nhân nghĩa cử tinh thần bất khuất lưu tồn.

Như đã được nói ở trên, Tứ Kiệt hy sinh vào ngày 14 tháng 2 năm 1871, tức ngày 25 tháng chạp năm Canh ngọ, tính đến nay (2007) đã là 136 năm, nhưng tại sao hàng năm nhân dân vẫn làm lễ giỗ 4 ông vào các ngày rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng tám và 25 tháng chạp?

Xuất phát từ tấm lòng cảm mến và kính phục oai đức, nên ngay từ thời Pháp thuộc, nhân dân nơi đây đã lập đền thờ Bốn Ông và giải thích đó là miếu cô hồn để qua mắt chính quyền thực dân, thành ra không thể cúng đúng vào ngày các ông hy sinh được mà phải chọn ngày tốt và tốt nhất là ngày rằm cho được danh chánh ngôn thuận, bởi theo như truyền thống tín ngưỡng của nhân dân, vào những ngày này, đồng bào đi cúng bái ở chùa chiền là chuyện bình thường, chính quyền Pháp sẽ không dòm ngó. Thượng nguơn là ngày rằm tháng giêng, là ngày rằm gần nhất so với ngày các ông hy sinh. Còn Trung nguơn, ngày rằm tháng bảy là nhằm cầu siêu cho Tứ Kiệt, cũng phù hợp với tên miếu cô hồn. Riêng về lễ cúng vào tháng 8, là cúng ông Chủ Chợ, tuy được tổ chức tại miếu nhưng không dính dáng gì với Tứ Kiệt.

Thành ra từ cả trăm năm nay, nhân dân buộc phải tổ chức ngày lễ giỗ trật ngày. Sau năm 1975 nhân dân vẫn giữ lệ cúng vào 2 ngày rằm ấy. Cho đến năm 1993, câu lạc bộ hưu trí của địa phương đã quyết định đứng ra tổ chức lễ giỗ đúng vào ngày mà các ông hy sinh là ngày 25 tháng chạp.

Các vị lãnh đạo tại lăng mộ và bia tưởng niệm Bốn ông Tứ Kiệt
Các vị lãnh đạo tại lăng mộ và bia tưởng niệm Bốn ông Tứ Kiệt

Tứ Kiệt và các nghĩa dũng ở tỉnh Tiền Giang đã góp phần tạo dựng lên tầm cao của một dân tộc anh hùng, và cũng chính các vị đã góp phần điểm tô cho 4 chữ vàng “địa linh nhân kiệt” của Tiền Giang được mãi mãi ngời sáng./.

Bài viết về Tiền Giang liên quan

Ghi chú bài viết Lễ giỗ Tứ Kiệt tại Tiền Giang

Nếu xảy ra lỗi với bài viết Lễ giỗ Tứ Kiệt tại Tiền Giang, hoặc nội dung chưa chính xác, vui lòng liên hệ với chúng tôi để chúng tôi chỉnh sửa lại.
Từ khóa:
Lễ giỗ bốn vị anh hùng: Nguyễn Thanh Long, Trương Văn Rộng, Trần Công Thận, Ngô Tấn Đước, bị giặc Pháp xử chém vào ngày 14 tháng 2 năm 1871, nhằm ngày 25...